NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG CÓ ĐƯỢC QUYỀN GIỮ SỔ KHÁM SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHÔNG ?

NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG CÓ ĐƯỢC QUYỀN GIỮ SỔ KHÁM SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG KHÔNG ?

Qua thông tin của một người bạn làm báo chí, có đặt câu hỏi liên quan đến vấn đề trên. Từ thực tiển làm công tác quản trị hành chánh nhân sự và dưới góc độ là người có am hiểu chút ít về pháp luật, mình xin có mấy ý kiến cá nhân như sau :
1. Về Hiến pháp : Căn cứ vào Hiến Pháp 2013 :
Căn cứ vào khoản 1, điều 21, Hiến pháp năm 2013 quy định :
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn”
Như vậy về bí mật cá nhân, đời sống riêng tư.. được pháp luật bảo đảm an toàn.

Tuy nhiên căn cứ theo khoản 2, điều 14, Hiến pháp năm 2013 quy định : ‘Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Như vậy quyền con người trong một số trường hợp việc bảo vệ cũng có hạn chế của nhất định của nó.
Điều này được thể hiện trong các Luật khác.

2. Về Luật khám chữa bệnh 2009 quy định :
Về tôn trọng và bảo vệ quyền bí mất riêng tư : Tại khoản 01 điều 8, quy định được giữ bí mật thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong sổ khám bệnh. Như vậy có cơ sở khẳng định rằng, sổ khám bệnh hoặc kết quả khám bệnh là bí mật riêng tư.

Tuy nhiên việc giữ bí mật và tôn trọng bí mật riêng tư bị hạn chế trong một số trường hợp sau được quy định tại các điều luật sau :

– Tại khoản 2 điều 3 quy định, việc giữ bí mật thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư bị loại trừ trong một số trường hợp sau : Trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 8, khoản 1 Điều 11 và khoản 4 Điều 59 của Luật khám chữa bệnh, cụ thể như :

 Tại khoản 2, điều 8, chỉ công bố về tình trạng sức khỏe và đời tư trong trường hợp để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán, chăm sóc, điều trị người bệnh giữa những người hành nghề trong nhóm trực tiếp điều trị cho người bệnh hoặc trong trường hợp khác được pháp luật quy định.
 Tại khoản 1, điều 11, cho phép được cung cấp thông tin tóm tắt về hồ sơ bệnh án nếu có yêu cầu bằng văn bản, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
 Tại khoản 4, điều 59 về việc khai thác hồ sơ bệnh án quy định : Người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh quyết định việc cho phép khai thác hồ sơ bệnh án trong các trường hợp sau đây:

 Sinh viên thực tập, nghiên cứu viên, người hành nghề trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được mượn hồ sơ bệnh án tại chỗ để đọc hoặc sao chép phục vụ cho việc nghiên cứu hoặc công tác chuyên môn kỹ thuật;
 Đại diện cơ quan quản lý nhà nước về y tế trực tiếp quản lý cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, thanh tra chuyên ngành y tế, cơ quan bảo hiểm, tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần, luật sư được mượn hồ sơ bệnh án tại chỗ để đọc hoặc sao chép phục vụ nhiệm vụ được giao theo thẩm quyền cho phép;
 Người bệnh hoặc người đại diện của người bệnh được nhận bản tóm tắt hồ sơ bệnh án theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật KCB.

Ngoài ra để hiểu hơn về Luật khám chữa bệnh, chúng ta cần quan tâm đến phạm vi điều chỉnh của Luật này. Căn cứ theo điều 1, luật này quy định quyền và nghĩa vụ của người bệnh, người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện đối với người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; quy định chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh; áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh, chữa bệnh; sai sót chuyên môn kỹ thuật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện bảo đảm công tác khám bệnh, chữa bệnh.=> Như vậy phạm vi về người bệnh là một phần nhỏ của luật này, không quy định mối quan hệ giữa người lao động và sử dụng lao động.
3. Bộ luật lao động 2012 quy định về khám sức khỏe, quản lý sức khỏe của người lao động :
“Điều 152. Chăm sóc sức khỏe cho người lao động

1. Người sử dụng lao động phải căn cứ vào tiêu chuẩn sức khỏe quy định cho từng loại công việc để tuyển dụng và sắp xếp lao động.

2. Hằng năm, người sử dụng lao động phải tổ chức khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động, kể cả người học nghề, tập nghề; lao động nữ phải được khám chuyên khoa phụ sản, người làm công việc nặng nhọc, độc hại, người lao động là người khuyết tật, người lao động chưa thành niên, người lao động cao tuổi phải được khám sức khỏe ít nhất 06 tháng một lần.

3. Người lao động làm việc trong điều kiện có nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp phải được khám bệnh nghề nghiệp theo quy định của Bộ Y tế.

4. Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải được giám định y khoa để xếp hạng thương tật, xác định mức độ suy giảm khả năng lao động và được điều trị, điều dưỡng, phục hồi chức năng lao động đúng theo quy định của pháp luật.

5. Người lao động sau khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nếu còn tiếp tục làm việc, thì được sắp xếp công việc phù hợp với sức khoẻ theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa lao động.

6. Người sử dụng lao động phải quản lý hồ sơ sức khoẻ của người lao động và hồ sơ theo dõi tổng hợp theo quy định của Bộ Y tế.

7. Người lao động làm việc ở nơi có yếu tố gây nhiễm độc, nhiễm trùng, khi hết giờ làm việc phải được người sử dụng lao động bảo đảm các biện pháp khử độc, khử trùng”.

Như vậy căn cứ cụ thể vào khoản 6 điều 152, bộ luật lao động quy định người sử dụng lao động phải quản lý hồ sơ sức khỏe của người lao động.
4. Luật an toàn vệ sinh lao động
– Điều 21, luật an toàn vệ sinh lao động quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp về việc khám sức khỏe và điều trị bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Là cơ sở để thuyên chuyển, đánh giá và bố trí công việc phù hợp với sức khỏe của người lao động.
– Tại khoản 1 điều 27, quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc kiểm soát kết quả khám sức khỏe của người lao động để bố trí công việc phù hợp.
– Tại khoản 2 điều 27, quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc quản lý hồ sơ sức khỏe của người lao động, thông báo về kết quả khám sức khỏe của người lao động và báo cáo cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
 Như vậy, việc quản lý hồ sơ khám sức khỏe trong đó thể hiện kết quả khám sức khỏe là trách nhiệm của người sử dụng lao động.
5. Thông tư 14 của bộ y tế về khám sức khỏe :
Thứ nhất , thông tư này trong phần viện dẫn thì căn cứ vào luật khám chữa bệnh, luật lao động, luật vệ sinh an toàn lao động… để hướng dẫn chi tiết về việc khám sức khỏe.

Thứ hai, tại khoản 2 điều 15, quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động trong sổ khám sức khỏe định kỳ của người lao động.

 Do vậy việc quy định của thông tư này phù hợp hoàn toàn với quy định của các luật khác.

6. Về thực tiển làm công tác quản trị hành chánh nhân sự :
Qua kinh nghiệm làm công tác quản trị hành chánh nhân sự trong đó có liên quan đến việc khám sức khỏe của nhân viên là công việc định kỳ của phòng hành chánh nhân sự. Việc quản lý hồ sơ khám sức khỏe cũng như kết quả khám sức khỏe của người sử dụng lao động là cần thiết và bắt buộc theo quy định của pháp luật trong việc báo cáo với các cơ quan chức năng cũng như việc bố trí sắp xếp công việc của nhân viên phù hợp với sức khỏe. Ví dụ nhân viên đầu bếp, nếu kết quả khám sức khỏe bị viêm gan B hoặc các bệnh truyền nhiễm khác thì không được bố trí vị trí đầu bếp.

Từ những phân tích ở trên, cho thấy rằng người sử dụng lao động có quyền giữ sổ khám sức khỏe của người lao động và phải chịu trách nhiệm trong việc bảo đảm bí mật thông tin cho người lao động.

Trên đây là ý kiến cá nhân, không phải ý kiến chính thức của Luật sư và chỉ có giá trị tham khảo. Để có được ý kiến tư vấn chính xác theo quy định của pháp luật hiện hành về lĩnh vực Lao động – Bảo hiểm, vui lòng liên hệ với hotline 08 8680 1966